Text Practice Mode
Hồi 1: Trụ Vương tế miễu bà Nữ Oa Phong thần diễn nghĩa
created Sep 23rd, 15:46 by LySokheng
1
1397 words
6 completed
0
Rating visible after 3 or more votes
saving score / loading statistics ...
00:00
Theo sử Trung Hoa thì trước kia đời Nghiêu, Thuấn vợ thứ hai của vua Ðế Cốt là Giảng Ðịnh đi cầu con ở gò Cao Mai trông thấy chim én đẻ rơi trước mặt. Bà Giảng Ðịnh cho là điềm lành, liền lấy trứng chim én ấy nuốt vào bụng. Quả nhiên vì nuốt trứng, bà thọ thai sinh được một trai đặt tên là Khiết.
Khiết lớn lên phò vua Nghiêu, rồi đến vua Thuấn, được phong làm chức Tư Ðồ. Vì có công dạy dân, về sau Khiết được phong làm Lạc Ấp, và làm chúa một xứ.
Dòng dõi ông Khiết vẫn nối chức cai trị Thái Ấp cho đến đời ông Thái Ất, tức là Thành Thang.
Thành Thang là người nhân đức và trung hậu, nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí, thất thời ẩn cư cày ruộng nơi Sằn Dã, liền đến rước về, dâng cho vua Kiệt, nhà Hạ dùng. Ấy là vì lòng trung, Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình.
Ai ngờ vua Kiệt bất trí, không biết dùng người tài, nghe lời dua mị, không trọng dụng Y Doãn. Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang.
Bấy giờ vua Kiệt càng ngày càng đắm say tửu sắc. Giết quan Long Phùng là một vị gián quan có công với nước, nên chẳng ai dám ra can ngăn nữa.
Hành động của vua Kiệt mỗi lúc một thối nát hơn. Ông Thành Thang thấy vậy sai người qua khóc lóc để khuyên can. Vua Kiệt đã không nghe còn bắt ông Thành Thang giam tại Hạ Ðài suốt một thời gian mới thả về.
Trong lúc vua Kiệt ham dâm, độc ác như vậy thì ông Thành Thang lại tỏ cho thiên hạ thấy ông là một người nhân hậu có tiếng.
Một hôm, ông Thành Thang ra ngoài đồng thấy người đi săn bủa lưới bốn phía, và vái:
- Trên trời sa xuống, dưới đất chun lên, tất cả bốn phương đều vô mảnh lưới.
Ông Thành Thang nghe lời vái ấy than thầm:
- Nếu vậy muôn cầm đìểu thú đều bị bắt hết còn gì?
Ông bèn truyền mở ba phía lưới ra, rồi khiến các thợ săn vái rằng:
Muốn lại thì lại, muốn qua thì qua
Ở trên trời sa xuống, có cánh bay xa
Ở dưới đất chun lên, có chân chạy ra
Con nào liều mạng, thì vào lưới ta
Cầm thú đều ra khỏi lưới hết. Bởi vậy đời sau người ta thường nói: "Mở lưới Thành Thang " tức là ý muốn nhắc đến tích ấy.
Giăng lưới để bắt cầm thú để ăn thịt mà chỉ giăng một mặt, chừa chỗ cho con thịt thoát ra thì lòng nhân còn gì hơn. Bởi vậy tiếng đồn tới cõi Hớn Nam, thiên hạ đều khen Thành Thang đức lớn, hơn bốn mươi nước đều theo.
Ðến sau, vua Kiệt vô đạo, hại dân gần chết, ông Y Doãn phò Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào.
Các chư hầu hội đũ mặt, tôn Thành Thang lên làm Thiên tử, Thành Thang vẫn từ chối, chỉ muốn nhận bổn phận chư hầu thôi, nhưng vì các chư hầu khác ép buộc, Thành Thang cực chẳng đã phải thuận lời lên ngôi Thiên tử lập Kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi mở đầu nhà Thương.
Vua Thành Thang bỏ các điều luật ác hiểm của vua Kiệt, đặt ra những việc dân ưa, dân mến, lấy đức trị dân, nên ai nấy đều theo về cả.
Trong thời gian đầu, vì vua Kiệt bất nhân, nên trời hạn hán suốt bảy năm, vua Thành Thang mới cầu mưa thì trời liền mưa xuống.
Vua trị dân nhân đức, dân coi vua như cha mẹ, trong nước không xảy ra điều gì cần phải xài đến luật pháp nữa.
Vua Thành Thang trị vì được 13 năm, thọ được 100 tuổi, rồi truyền xuống con cháu đến 28 đời, tổng cộng là 564 năm, đến đời Ân Thọ (vua Trụ) thì nhà Thương mới mất.
Hai mươi tám đời vua nhà Thương truyền nối như sau:
1 - Thành Thang
2 - Thái Giáp
3 - Óc Ðinh
4 - Thái Canh
5 - Tiển Giáp
6 - Ứng Kỷ
7 - Thái Hậu
8 - Trọng Ðỉnh
9 - Ngoại Nhâm
10 - Hà Ðản Giáp
11 - Tổ Ất
12 - Tổ Tân
13 - Óc Giáp
14 - Tổ Ðinh
15 - Nam Canh
16 - Ðương Giáp
17 - Bàn Canh
18 - Tiểu Tân
19 - Tiểu Ất
20 - Võ Ðinh
21 - Tổ Canh
22 - Tổ Giáp
23 - Lâm Tân
24 - Canh Ðịnh
25 - Thái Ðỉnh
27 - Ðế Ất
28 - Ân Thọ (Trụ Vương).
Truyện này nói về cuối đời nhà Thương, lúc Trụ Vương mất nước, và nhà Châu lên kế vị.
Vua Trụ là con thứ ba của vua Ðế Ất. Vua Ðế Ất có ba người con là Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển và Ân Thọ.
Nhân khi vua Ðế Ất ngự ngoài vười xem hoa mẫu đơn với các quan, thấy lầu Phi Vân gãy mất một kèo, liền truyền các quan thay cây kèo ấy. Các quan xúm lại đỡ không nổi.
Bấy giờ có Ân Thọ đi theo, thấy vậy một mình xốc lại, một tay đỡ cây kèo, một tay nhổ cột lên thay.
Các quan trông thấy sức mạnh của Thọ Vương ai cũng quỳ lạy chúc mừng.
Thừa Tướng Thương Dung và quan Ðại Phu Mai Bá, Triệu Khải đồng quỳ tâu với vua Ðế Ất:
- Thọ Vương tuy là con út nhưng tài năng như vậy có thể làm rạng rỡ nhà Thương sau này, xin Bệ hạ phong làm Thái Tử, để nối ngôi.
Ðế Ất bằng lòng, lập Ân Thọ lên làm Thái Tử.
Vua Ðế Ất trị vì được ba mươi năm thì băng hà. Lúc lâm chung có phú thác Thọ Vương cho Thái Sư Văn Trọng, nên sau đó Thọ Vương được lên ngôi Thiên tử tức Trụ Vương, đóng đô tại Triều Ca.
Hai người anh của vua Trụ tuy không được nối ngôi, song vẫn một lòng hiếu thuận, không hiềm khích, hoặc có ý ganh tỵ. Bởi vậy từ trong đến ngoài đều an lạc.
Văn thì có Thái Sư Văn Trọng đủ tài trị nước, võ thì có Trấn Quốc Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ đủ tài trấn áp các nước chư hầu.
Trong cung ba bà cung hậu như Chánh Cung Khương hoàng Hậu, Tây Cung Hoàng Thị (em Hoàng Phi Hổ), Ninh Khánh Cung Ðương thị đều có đức hạnh, trinh chính, hòa nhã, hiền lành.
Vua Trụ ngồi hưởng thái bình, muôn dân lạc nghiệp, mưa hòa gió thuận, tưởng không có gì sung sướng hơn.
Bấy giờ nhà Thương cầm đầu một số chư hầu gồm bảy trăm Trấn chia làm bốn Cõi có một chư hầu lớn thay mặt nhà Thương điều khiễn.
Bốn Trấn chư hầu lớn gồm có:
1 - Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở (cha của Khương Hoàng Hậu).
2 - Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ
3 - Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương)
4 - Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ.
Mỗi Trấn chư hầu lớn cai trị gần một trăm chư hầu nhỏ, cộng bảy trăm Trấn chư hầu.
Sau khi Trụ Vương lên ngôi được bảy năm thì có một số chư hầu nhỏ phía Bắc do Viên Phước Thông cầm đầu nổi loạn. Thái Sư Văn Trọng phải tuân lệnh đi đánh dẹp.
Văn Trọng ra đi, việc triều chính thiếu người định đoạt, nên vua Trụ thường gần gũi hai tên Vưu Hồn và Bí trọng, là hai tên xu nịnh, trước kia đã nhiều lần Văn trọng can không cho vua Trụ gần hai tên ấy.
Một hôm vào tiết tháng ba, vua Trụ ngự triều, Thừa Tướng Thương Dung tâu:
- Ngày mai là ngày rằm, nhằm vía bà Nữ Oa, xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước.
Vua Trụ hỏi:
- Bà Nữ Oa là người thế nào đến nỗi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương?
Thương Dung tâu:
Khiết lớn lên phò vua Nghiêu, rồi đến vua Thuấn, được phong làm chức Tư Ðồ. Vì có công dạy dân, về sau Khiết được phong làm Lạc Ấp, và làm chúa một xứ.
Dòng dõi ông Khiết vẫn nối chức cai trị Thái Ấp cho đến đời ông Thái Ất, tức là Thành Thang.
Thành Thang là người nhân đức và trung hậu, nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí, thất thời ẩn cư cày ruộng nơi Sằn Dã, liền đến rước về, dâng cho vua Kiệt, nhà Hạ dùng. Ấy là vì lòng trung, Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình.
Ai ngờ vua Kiệt bất trí, không biết dùng người tài, nghe lời dua mị, không trọng dụng Y Doãn. Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang.
Bấy giờ vua Kiệt càng ngày càng đắm say tửu sắc. Giết quan Long Phùng là một vị gián quan có công với nước, nên chẳng ai dám ra can ngăn nữa.
Hành động của vua Kiệt mỗi lúc một thối nát hơn. Ông Thành Thang thấy vậy sai người qua khóc lóc để khuyên can. Vua Kiệt đã không nghe còn bắt ông Thành Thang giam tại Hạ Ðài suốt một thời gian mới thả về.
Trong lúc vua Kiệt ham dâm, độc ác như vậy thì ông Thành Thang lại tỏ cho thiên hạ thấy ông là một người nhân hậu có tiếng.
Một hôm, ông Thành Thang ra ngoài đồng thấy người đi săn bủa lưới bốn phía, và vái:
- Trên trời sa xuống, dưới đất chun lên, tất cả bốn phương đều vô mảnh lưới.
Ông Thành Thang nghe lời vái ấy than thầm:
- Nếu vậy muôn cầm đìểu thú đều bị bắt hết còn gì?
Ông bèn truyền mở ba phía lưới ra, rồi khiến các thợ săn vái rằng:
Muốn lại thì lại, muốn qua thì qua
Ở trên trời sa xuống, có cánh bay xa
Ở dưới đất chun lên, có chân chạy ra
Con nào liều mạng, thì vào lưới ta
Cầm thú đều ra khỏi lưới hết. Bởi vậy đời sau người ta thường nói: "Mở lưới Thành Thang " tức là ý muốn nhắc đến tích ấy.
Giăng lưới để bắt cầm thú để ăn thịt mà chỉ giăng một mặt, chừa chỗ cho con thịt thoát ra thì lòng nhân còn gì hơn. Bởi vậy tiếng đồn tới cõi Hớn Nam, thiên hạ đều khen Thành Thang đức lớn, hơn bốn mươi nước đều theo.
Ðến sau, vua Kiệt vô đạo, hại dân gần chết, ông Y Doãn phò Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào.
Các chư hầu hội đũ mặt, tôn Thành Thang lên làm Thiên tử, Thành Thang vẫn từ chối, chỉ muốn nhận bổn phận chư hầu thôi, nhưng vì các chư hầu khác ép buộc, Thành Thang cực chẳng đã phải thuận lời lên ngôi Thiên tử lập Kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi mở đầu nhà Thương.
Vua Thành Thang bỏ các điều luật ác hiểm của vua Kiệt, đặt ra những việc dân ưa, dân mến, lấy đức trị dân, nên ai nấy đều theo về cả.
Trong thời gian đầu, vì vua Kiệt bất nhân, nên trời hạn hán suốt bảy năm, vua Thành Thang mới cầu mưa thì trời liền mưa xuống.
Vua trị dân nhân đức, dân coi vua như cha mẹ, trong nước không xảy ra điều gì cần phải xài đến luật pháp nữa.
Vua Thành Thang trị vì được 13 năm, thọ được 100 tuổi, rồi truyền xuống con cháu đến 28 đời, tổng cộng là 564 năm, đến đời Ân Thọ (vua Trụ) thì nhà Thương mới mất.
Hai mươi tám đời vua nhà Thương truyền nối như sau:
1 - Thành Thang
2 - Thái Giáp
3 - Óc Ðinh
4 - Thái Canh
5 - Tiển Giáp
6 - Ứng Kỷ
7 - Thái Hậu
8 - Trọng Ðỉnh
9 - Ngoại Nhâm
10 - Hà Ðản Giáp
11 - Tổ Ất
12 - Tổ Tân
13 - Óc Giáp
14 - Tổ Ðinh
15 - Nam Canh
16 - Ðương Giáp
17 - Bàn Canh
18 - Tiểu Tân
19 - Tiểu Ất
20 - Võ Ðinh
21 - Tổ Canh
22 - Tổ Giáp
23 - Lâm Tân
24 - Canh Ðịnh
25 - Thái Ðỉnh
27 - Ðế Ất
28 - Ân Thọ (Trụ Vương).
Truyện này nói về cuối đời nhà Thương, lúc Trụ Vương mất nước, và nhà Châu lên kế vị.
Vua Trụ là con thứ ba của vua Ðế Ất. Vua Ðế Ất có ba người con là Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển và Ân Thọ.
Nhân khi vua Ðế Ất ngự ngoài vười xem hoa mẫu đơn với các quan, thấy lầu Phi Vân gãy mất một kèo, liền truyền các quan thay cây kèo ấy. Các quan xúm lại đỡ không nổi.
Bấy giờ có Ân Thọ đi theo, thấy vậy một mình xốc lại, một tay đỡ cây kèo, một tay nhổ cột lên thay.
Các quan trông thấy sức mạnh của Thọ Vương ai cũng quỳ lạy chúc mừng.
Thừa Tướng Thương Dung và quan Ðại Phu Mai Bá, Triệu Khải đồng quỳ tâu với vua Ðế Ất:
- Thọ Vương tuy là con út nhưng tài năng như vậy có thể làm rạng rỡ nhà Thương sau này, xin Bệ hạ phong làm Thái Tử, để nối ngôi.
Ðế Ất bằng lòng, lập Ân Thọ lên làm Thái Tử.
Vua Ðế Ất trị vì được ba mươi năm thì băng hà. Lúc lâm chung có phú thác Thọ Vương cho Thái Sư Văn Trọng, nên sau đó Thọ Vương được lên ngôi Thiên tử tức Trụ Vương, đóng đô tại Triều Ca.
Hai người anh của vua Trụ tuy không được nối ngôi, song vẫn một lòng hiếu thuận, không hiềm khích, hoặc có ý ganh tỵ. Bởi vậy từ trong đến ngoài đều an lạc.
Văn thì có Thái Sư Văn Trọng đủ tài trị nước, võ thì có Trấn Quốc Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ đủ tài trấn áp các nước chư hầu.
Trong cung ba bà cung hậu như Chánh Cung Khương hoàng Hậu, Tây Cung Hoàng Thị (em Hoàng Phi Hổ), Ninh Khánh Cung Ðương thị đều có đức hạnh, trinh chính, hòa nhã, hiền lành.
Vua Trụ ngồi hưởng thái bình, muôn dân lạc nghiệp, mưa hòa gió thuận, tưởng không có gì sung sướng hơn.
Bấy giờ nhà Thương cầm đầu một số chư hầu gồm bảy trăm Trấn chia làm bốn Cõi có một chư hầu lớn thay mặt nhà Thương điều khiễn.
Bốn Trấn chư hầu lớn gồm có:
1 - Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở (cha của Khương Hoàng Hậu).
2 - Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ
3 - Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương)
4 - Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ.
Mỗi Trấn chư hầu lớn cai trị gần một trăm chư hầu nhỏ, cộng bảy trăm Trấn chư hầu.
Sau khi Trụ Vương lên ngôi được bảy năm thì có một số chư hầu nhỏ phía Bắc do Viên Phước Thông cầm đầu nổi loạn. Thái Sư Văn Trọng phải tuân lệnh đi đánh dẹp.
Văn Trọng ra đi, việc triều chính thiếu người định đoạt, nên vua Trụ thường gần gũi hai tên Vưu Hồn và Bí trọng, là hai tên xu nịnh, trước kia đã nhiều lần Văn trọng can không cho vua Trụ gần hai tên ấy.
Một hôm vào tiết tháng ba, vua Trụ ngự triều, Thừa Tướng Thương Dung tâu:
- Ngày mai là ngày rằm, nhằm vía bà Nữ Oa, xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước.
Vua Trụ hỏi:
- Bà Nữ Oa là người thế nào đến nỗi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương?
Thương Dung tâu:
