Text Practice Mode
triết học mac-lenin
created Oct 15th, 01:05 by NgoThiDieuLinh
4
936 words
25 completed
5
Rating visible after 3 or more votes
saving score / loading statistics ...
00:00
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học – kỹ thuật – công nghệ của nền sản xuất hiện đại đã thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ. Nhiều quốc gia đang tiến vào làn sóng văn minh mới với sự phát triển vượt bậc nhờ có chiến lược phù hợp, có những chính sách khôn ngoan, năng động. Trong đó, có nhiều quốc gia vốn cũng nghèo về tài nguyên nhưng nhờ biết phát huy yếu tố con người, đặt con người ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển nền kinh tế - xã hội nên đã vươn lên nhanh chóng trên tiến trình phát triển. Có thể nói, con người – người lao động luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và toàn xã hội nói chung. Hiểu rõ vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất và có một chiến lược để phát triển nguồn nhân lực là vấn đề rất cần thiết trên con đường đưa đất nước trở thành giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, nhóm sinh viên chọn vấn đề: Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong phép biện chứng duy vật, liên hệ với vấn đề sự phát triển cá nhan trong xã hội toàn cầu hóa làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong phép biện chứng duy vật, liên hệ với vấn đề sự phát triển cá nhân trong xã hội toàn cầu hóa.
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Quan điểm của phép biện chứng duy vật về cái riêng, cái chung, cái đơn nhất
- Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung, cái đơn nhất, ý nghĩa phương pháp luận, và phát triển cá nhân trong xã hội toàn cầu hoá.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp cụ thể như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch...
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong phép biện chứng duy vật, liên hệ với vấn đề sự phát triển của cá nhân trong xã hội toàn cầu hóa
1.1. Quan điểm của phép biện chứng duy vật về cái riêng, cái chung, cái đơn nhất
1.1.1. Cái riêng: là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định.
Ví dụ: Một người cụ thể là một cái riêng.
1.1.2. Cái đơn nhất: là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác.
Ví dụ: Con người cũng có những cái chung như đều hô hấp, tiêu hóa, hệ tuần hoàn,...
1.1.3. Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không có ở một sự vật, hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng (nhiều cái riêng) khác.
Ví dụ: Mỗi một con người đều có một dấu vân tay, mã gene khác nhau, tính cách khác nhau,...
Trong lịch sử triết học có hai xu hướng là duy thực và duy danh đối lập nhau giải quyết vần đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Các nhà duy thực khẳng định, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng. Có hai luận giải: Theo luận giải thứ nhất (khá phổ biến) thì cái chung mang tính tư tưởng, tinh thần, tồn tại dưới dạng các khái niệm chung; theo cách lý giải thứ hai thì cái chung mang tính vật chất, tồn tại dưới dạng một khối không đổi, bao trùm tất cả, tự trùng với mình hoặc dưới dạng nhóm các đối tượng... Còn cái riêng, hoặc hoàn toàn không có (do xuất phát từ Plato vốn coi các sự vật cảm tính là thực, chỉ là cái bóng của những ý niệm), hoặc tồn tại phụ thuộc vào cái chung; cái thứ yếu, tạm thời, do cái chung sinh ra.
Các nhà duy danh cho rằng, cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách quan, chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực, chỉ tồn tại trong tư duy con người, chỉ là tên gọi của các đối tượng riêng lẻ. Tuy cùng coi cái riêng là duy nhất có thực, song các nhà duy danh giải quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó. Một số người (như Occam) cho rằng, cái riêng tồn tại như đối tượng vật chất cảm tính; số khác (như Berkeley) lại coi cảm giác là hình thức tồn tại của cái riêng.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học – kỹ thuật – công nghệ của nền sản xuất hiện đại đã thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ. Nhiều quốc gia đang tiến vào làn sóng văn minh mới với sự phát triển vượt bậc nhờ có chiến lược phù hợp, có những chính sách khôn ngoan, năng động. Trong đó, có nhiều quốc gia vốn cũng nghèo về tài nguyên nhưng nhờ biết phát huy yếu tố con người, đặt con người ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển nền kinh tế - xã hội nên đã vươn lên nhanh chóng trên tiến trình phát triển. Có thể nói, con người – người lao động luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và toàn xã hội nói chung. Hiểu rõ vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất và có một chiến lược để phát triển nguồn nhân lực là vấn đề rất cần thiết trên con đường đưa đất nước trở thành giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, nhóm sinh viên chọn vấn đề: Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong phép biện chứng duy vật, liên hệ với vấn đề sự phát triển cá nhan trong xã hội toàn cầu hóa làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong phép biện chứng duy vật, liên hệ với vấn đề sự phát triển cá nhân trong xã hội toàn cầu hóa.
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Quan điểm của phép biện chứng duy vật về cái riêng, cái chung, cái đơn nhất
- Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung, cái đơn nhất, ý nghĩa phương pháp luận, và phát triển cá nhân trong xã hội toàn cầu hoá.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp cụ thể như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch...
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng trong phép biện chứng duy vật, liên hệ với vấn đề sự phát triển của cá nhân trong xã hội toàn cầu hóa
1.1. Quan điểm của phép biện chứng duy vật về cái riêng, cái chung, cái đơn nhất
1.1.1. Cái riêng: là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định.
Ví dụ: Một người cụ thể là một cái riêng.
1.1.2. Cái đơn nhất: là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào khác.
Ví dụ: Con người cũng có những cái chung như đều hô hấp, tiêu hóa, hệ tuần hoàn,...
1.1.3. Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không có ở một sự vật, hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng (nhiều cái riêng) khác.
Ví dụ: Mỗi một con người đều có một dấu vân tay, mã gene khác nhau, tính cách khác nhau,...
Trong lịch sử triết học có hai xu hướng là duy thực và duy danh đối lập nhau giải quyết vần đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Các nhà duy thực khẳng định, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng. Có hai luận giải: Theo luận giải thứ nhất (khá phổ biến) thì cái chung mang tính tư tưởng, tinh thần, tồn tại dưới dạng các khái niệm chung; theo cách lý giải thứ hai thì cái chung mang tính vật chất, tồn tại dưới dạng một khối không đổi, bao trùm tất cả, tự trùng với mình hoặc dưới dạng nhóm các đối tượng... Còn cái riêng, hoặc hoàn toàn không có (do xuất phát từ Plato vốn coi các sự vật cảm tính là thực, chỉ là cái bóng của những ý niệm), hoặc tồn tại phụ thuộc vào cái chung; cái thứ yếu, tạm thời, do cái chung sinh ra.
Các nhà duy danh cho rằng, cái chung không tồn tại thực trong hiện thực khách quan, chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực, chỉ tồn tại trong tư duy con người, chỉ là tên gọi của các đối tượng riêng lẻ. Tuy cùng coi cái riêng là duy nhất có thực, song các nhà duy danh giải quyết khác nhau vấn đề hình thức tồn tại của nó. Một số người (như Occam) cho rằng, cái riêng tồn tại như đối tượng vật chất cảm tính; số khác (như Berkeley) lại coi cảm giác là hình thức tồn tại của cái riêng.
saving score / loading statistics ...